Tục trở về là
một hôn lễ trong hôn nhân của các dân tộc trên thế giới. Nội dung của tục này
là người con gái trong lễ cưới, khi được đưa dâu về nhà chồng lần đầu tiên, sau
một thời gian nhất định, bắt buộc phải trở về nhà bố mẹ đẻ một thời gian, rồi
mới trở lại nhà chồng, ở hẳn bên chồng. Từ đó về sau khi bên nhà bố mẹ đẻ có
việc mới trở về, chứ không có những quy định cụ thể.
Tục trở về
cho đến nay, vẫn còn ít được nghiên cứu. Trong nền Dân tộc học Xô viết trước đây,
tiêu biểu hơn cả là công trình nghiên cứu của Giáo sư - Tiến sỹ M.O.Conven,
nhan đề là “Bozbpausehuegomou” (Tục trở về). Trong công trình đó, nói
đến tục trở về của nhiều dân tộc trên thế giới. Nhưng tác giả không có được
những thông tin về tập tục này ở các dân tộc nước ta để đưa vào cuốn sách.
Trong các công trình nghiên cứu Dân tộc học Việt Nam , từ trước đến nay, vấn đề này
cũng chưa được giới khoa học quan tâm bao nhiêu. Ngay cả nhưng luận án cử nhân,
thạc sĩ, tiến sĩ, các chuyên khảo về hôn nhân gia đình các dân tộc nước ta, tập
tục này hoặc bị bỏ qua, hoặc chỉ đề cập rất sơ sài.
Trong bản báo
cáo này tôi nêu lên một số tư liệu Dân tộc học về tập tục trở về ở nước ta. Tôi
đã lập một phiếu điều tra khảo sát gồm có 16 câu hỏi (kèm theo đây), và đã nhờ
một số cộng tác viên giúp sức thực hiện. Tôi đã thu về được thông tin từ 31 dân
tộc. Số lượng tài liệu khảo sát thu được không đồng đều, dân tộc thu được nhiều
tài liệu hơn cả là Thái 6, Dao 6, Tày 5 v.v… Các dân tộc thu thập được tài liệu
đều được phân bố trong tất cả các nhóm ngôn ngữ khác nhau, thuộc các địa bàn cư
trú ở nước ta. Nhờ các cộng tác viên: Đ/c Mã Điền Cư, Tiến sĩ Trần Hữu Sơn và
đ/c Nguyễn Văn Thắng (Sở VHTT Lào Cai), TS Nguyễn Xuân Hồng (Thừa Thiên Huế),
TS. Lưu Hùng và các chuyên viên Vũ Hồng Thuật, Trần Hoàng Long, Vũ Thị Hà (Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam), TS Vũ Trường Giang (Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh), Trịnh Hưng Thịnh (Vụ trưởng Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội), TS.Mlô
Thu Nhung (Viện Dân tộc học), TS Thành Phần (Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn thành phố Hồ Chí Minh), PGS.TS Hoàng Lương (Đại học KHXHNV Hà Nội),
Nhà Dân tộc học Cầm Trọng (Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam), PGS.TS.Hoàng Nam
(Trường Đại học Văn hóa) v.v…, tôi có được tài liệu do hơn 50 người dân tộc thuộc 31 dân
tộc cung cấp.
Tục trở về
tuy chỉ là một hôn lễ, nhưng liên quan đến nó có nhiều tình tiết, ví dụ cô dâu
về nhà chồng thời gian bao lâu mới trở về nhà mẹ đẻ, ở nhà mẹ đẻ bao lâu thì
phải trở về nhà chồng, khi đi và về thì ai đi theo, khi về nhà mẹ đẻ, đem theo
nhưng gì, về nhà mẹ có cúng bái gì không, giới hạn tự do ở tại nhà mẹ đẻ khi đa
có chồng ở mức độ nào, trong một đời người, phải trở về mấy lần là bắt buộc
theo tập tục, với người phụ nữ lấy chồng lần hai, có thực hiện tục trở về không
v.v…
Vì thời gian
hạn chế cho một bản báo cáo, tôi chỉ đề cập đến một vấn đề là nêu lên sự hiện
diện của tập tục này ở các dân tộc nước ta, từ đó rút ra một vài nhận xét cần
thiết.
1. Dân tộc
Thái
Theo đồng chí
Lương Thị Hoa - Cán Khê, Như Thanh, Thanh Hóa, người Thái ở đây gọi tục trở về
là Mưa hươn, cô dâu sau ngày cưới là về nhà mẹ ngay, chỉ ở lại một buổi, rồi
quay về nhà chồng.
Theo đồng chí
Phan Thị Lượng, huyện Mường Lát, Thanh Hóa, ở người Thái (Đen) tục lại mặt gọi
là Khưu hoai, nghĩa là lại mặt. Cô dâu về nhà chồng 1-2 ngày, phải trở
về nhà mẹ đẻ.
Theo đồng chí
Đinh Văn Oanh, xa Môn Sơn, Con Cuông, Nghệ An, người Thái (Hàng Tổng) gọi tục
trẻ về là Hưn Hòi hay Khủn hòi, nghĩa là lại mặt, sau khi về nhà trai
một ngày đêm, sáng hôm sau cô dâu về nhà mẹ đẻ ở lại một ngày rồi về nhà chồng.
Theo đồng chí
Vì Thị Mại, Mai Châu, Hòa Bình, ở người Thái trắng, tục trở về gọi là Khưu
hoài, hoặc Ooc ná, nghĩa là ra mắt, lại mặt. Sau khi làm xong thủ
tục cưới bên nhà chú rể, thì về lại nhà mẹ đẻ, nghĩa là trong cùng một ngày, Ở
lại nhà mẹ đẻ từ 2-6 ngày, thì trở lại nhà chồng.
Theo đồng chí
Lù Thị Phương, Khổng Lào, Phong Thổ, Lai Châu, ở người Thái trắng, tục trở về
gọi là Ó nả, nghĩa là lại mặt. Sau 3 ngày ở nhà chồng, người phụ nữ phải trở về
nhà mẹ đẻ.
Theo PGS.TS
Hoàng Lương, người Thái ở Bản Puôi, xã Huy Tân, Phù Yên, Sơn La tục trở về gọi
là Tảo hoi tin (quay lại vết chân). Cô dâu ở nhà trai 3 ngày, về thăm mẹ
đẻ rồi quay ngay về nhà chồng trong ngày.
2. Dân tộc
Tày. Theo ông Ma
Thanh Sợi, xã Nghĩa Đô, Bảo Yên, Lào Cai, tập tục này ở người Tày gọi là Tào
lại rói tịu, nghĩa là quay lại dấu chân. Cô dâu ngày hôm sau, sau ngày cưới
phải về nhà mẹ đẻ, có chậm thì nhất thiết không được để quá 7 ngày.
Theo ông Vàng
Văn Liềng, thôn Nậm Cáy, Bắc Hà, thì ngày hôm sau đám cưới cùng chú rể về nhà
mẹ đẻ mình làm lễ ăn lại mặt, rồi lại trở về nhà chồng ngay trong ngày hôm ấy.
Điều đáng chú ý là theo ông Vàng Văn Liềng, ở người Tày Bắc Hà, tục trở về diễn
ra đến hai lần. Lần thứ nhất: Ngay hôm sau ngày cưới đón dâu; lần thứ hai: 12
ngày sau lại phải trở về một lần nữa.
Theo đồng chí
Hoàng Thị Hồng Hạnh, Đại Lịch, Văn Chấn, Yên Bái tục trở về ở người Tày gọi là Tèo lòi, nghĩa là lại mặt thực hiện ngày
thứ ba, sau lễ cưới.
Theo đồng chí
Nguyễn Thị Biện, Nà Rì, Bắc Cạn, tục lại mặt ở người Tày gọi là Hòi lòi, nghĩa là lại mặt. Cô dâu về nhà
chồng một ngày, thì trở lại nhà mẹ để, ở lại một đêm hôm sau lại cùng chồng trở
về nhà trai.
Theo ông
Trương Mạnh Hùng, Mường Khương, Lao Cai ở người Pa Dí, sau ngày cưới 3 ngày, cô
dâu phải trở về nhà mẹ đẻ 2-3 ngày.
3. Dân tộc Giấy: Theo đồng chí Trang Đức Bình, xã
Bản Lang, Phong Thổ, Lai Châu, tục trở về ở người Giấy gọi là Táo ná, nghĩa là lại mặt, diễn ra 2-3
ngày sau lễ cưới, ở lại 1-2 ngày là trở về nhà chồng.
4. Dân tộc Sán Chay (Cao Lan): Theo đồng chí ở Sơn Dương, Tuyên
Quang tục trở về gọi là Tầu lầy (lại
mặt), cô dâu ở nhà chồng một ngày một đêm, sáng hôm sau, tinh mơ là trở về nhà
mẹ đẻ luôn, ở lại với mẹ 2 ngày 1 đêm.
5. Dân tộc Lào: Theo đồng chí Hoàng Thị Hậu, xã
Mường Và, huyện Sốp Cộp, Sơn La, người Lào ở đây không có tục trở về. Lễ cưới
chỉ tổ chức trong một ngày ở nhà gái, sau lễ cưới, chú rể ở luôn nhà bố mẹ vợ
3-5 năm. Hết hạn ở rể, nhà chồng tổ chức đón dâu. Cô dâu theo tập tục khi về
nhà chồng, không bắt buộc trở lại nhà mẹ đẻ nữa.
6. Dân tộc Nùng:
Theo đồng chí
Vi Văn Thanh, Đồng Bục, Lộc Bình, Lạng Sơn tục này gọi là Hòi lòi (tức lễ lại
mặt), sau lễ cưới một ngày cô dâu về nhà chồng
Theo đồng chí
Vy Đức Được, Bình Gia, Lạng Sơn, ở người Nùng tục này gọi là Hồi lòi, tức là lại mặt hay trở lại nhà
gốc. Sau hôn lễ 3 ngày, cô dâu trở lại nhà mẹ đẻ, ở lại nhà mẹ đẻ cho đến khi
nào có con mới qua ở nhà chồng.
Theo PGS.TS
Hoàng Nam, người Nùng Inh, xã Đại An, Văn Quang, Lạng Sơn, tục trở về gọi là Hòi lòi (trở lại dấu chân). Sau lễ cưới,
cô dâu ở lại nhà chồng 1-3 ngày, rồi trở lại nhà mẹ đẻ cho đến khi sinh con đầu
lòng mới trở về nhà chồng.
II. CÁC DÂN TỘC THUỘC NHÓM
NGÔN NGỮ HMÔNG-DAO
7. Dân tộc Hmông:
Theo ông Lý
Seo Vảng, Si Ma Cai, Lào Cai, tục này ở người Hmông gọi là Tráo trồng (lại mặt). Cô dâu sau lễ cưới ở nhà chồng 5-7 ngày là
trở về nhà mẹ đẻ, ở lại một ngày một đêm.
Theo ông Vừ A
Giang (Hmông trắng) ở Bản Ốc, xã
Mương Tịn, Yên Châu, tục này gọi là Mồng
Sái nà tái, nghĩa là đi thăm bên gái, sau lễ cưới 3 ngày là về nhà mẹ đẻ, ở
lại 3 ngày.
8. Dân tộc Pà Thẻn:
Theo cô Lê
Thị Thanh, trong luận án cử nhân, khoa sử, 2004, người Pa Thẻn, thôn Thượng
Minh, Chiêm Hóa, Tuyên Quang lễ lại mặt gọi là Tu Lư, 3 ngày sau khi cưới cô
dâu trở lại nhà mẹ đẻ. Sau khi cúng tổ tiên, làm lễ rửa tay cho gia đình bên
vợ, kết thúc bữa ăn, cô dâu chú rể phải lập tức xin phép ra về, trước khi mặt
trời lặn.
9. Dân tộc Dao:
Theo ông Lý
Thành, Mộc Châu, Sơn La, tục này ở người Dao gọi là Hùi miền, nghĩa lại mặt, sau lễ cưới 3 ngày cô dâu trở lại nhà mẹ
đẻ, ở bao lâu không quy định cụ thể, tùy hoàn cảnh từng người.
Theo ông Bàn
Văn Sang, Khe Mụ, Sơn Hà, Bảo Thắng, Lào Cai, ở người Dao Họ, tục này gọi là Hụi lâu nghĩa là quay lại nhà mình. Ngay
hôm sau ngày cưới, cô dâu trở về nhà mẹ đẻ. Theo tập tục trở lại nhà mẹ vào
cuối buổi chiều và hôm sau cũng buổi chiều thì về lại nhà trai.
Theo đồng chí
Bàn Hữu Dần, Bắc Cạn, thì ở người Dao đỏ, tục này gọi là Mỉn tiu, nghĩa là lại mặt cô dâu về nhà chống ít nhất một tháng mới
được về nhà mẹ đẻ, và ở lại từ 1-3 ngày.
Theo ông
Triệu Bình, Ngọc Lạc, Thanh Hóa, tục này ở người Dao gọi là Úi mịn (lại mặt, có nghĩa là trở lại).
Cô dâu về nhà chồng sau 3-5 ngày thì về nhà mẹ đẻ, ở lại trong 3 ngày.
Theo đồng chí
Phương Quầy Phin, Hà Giang, ở người Dao tục này gọi là Dẫn ngoài tra, nghĩa là về thăm bên ngoại, sau lễ cưới một tháng,
thì cô dâu trở về nhà mẹ đẻ, ở lài từ 3-5 ngày.
Theo đồng chí
Dương Kim Ngân, xã Ba Vì, Sơn Tây, người Dao Quần Chẹt, có tục Ủy mỉ, Ùi mịn, nghĩa là trở về. Sau lễ
cưới, cô dâu ở nhà chồng 3-5 ngày, về nhà mẹ đẻ trước 4 ngày bây giờ -2 ngày
rồi lại quay về nhà chồng.
III. CÁC DÂN TỘC THUỘC NHÓM
NGÔN NGỮ TẠNG - MIANMA
10. Dân tộc Lô Lô:
Theo
đồng chí Lý Thị Kính, xóm Khẩu Chang, xã Hồng Trị, Bảo Lạc, Cao Bằng, tục trở
về gọi là Khỉa gà pú là, nghĩa là lộn
lại vết chân. Sau lễ cưới, cô dâu ở nhà trai 3 tuần rồi trở lại nhà mẹ đẻ 3
tuần, sau đó mới về hẳn nhà chồng.
11. Dân tộc Hà Nhì:
Theo
đồng chí Lý Khai Phà, tỉnh Lai Châu, tục này gọi là Ạ ta, ạ ma lu khó ụ lý, nghĩa là về nhà bố mẹ đẻ. Thời gian ở lại
nhà chống sau lễ cưới, cũng như thời gian ở lại nhà mẹ đẻ, không quy định cụ
thể, tùy theo sự thỏa thuận của bên trai và bên gái.
Theo
ông Lù Thanh Xà, Mường Tè, Lai châu, tục này gọi là Ga phu từ ụ í (Xà ga ù ỳ), tức là lại mặt. Cô dâu ở lại nhà trai
trong phạm vi không quá một tuần, trở về nhà mẹ đẻ, tùy thuộc vào ngày tốt,
thường ở lại nhà mẹ đẻ trong một đêm, rồi trở về nhà chồng.
12. Dân tộc Phù Lá: Theo bà Giàng Sến Lình,
thôn Cốc Sâm 5, Phong Niên, Bảo Thắng, Lào Cai, tục này gọi là Khuầy Mềnh - Tí má, có nghĩa là đi về nhà bố mẹ.
Sau lễ kết hôn từ 1-3 ngày, cô dâu từ nhà chồng, trở về nhà mẹ đẻ thông thường
lấy ngày thứ ba, nhưng nếu ngày cưới là ngày đẹp, thì sau khi ở nhà trai 1-2
giờ, nhà trai có thể làm lễ cho cô dâu lại mặt nhà gái. Làm lễ cúng tổ tiên, ăn
uống xong, bắt buộc phải trở về trong ngày, dù đường về xa hay gần.
IV DÂN TỘC
THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ KAĐAI:
13. Dân tộc CơLao: Theo đồng chí Vương Thị
Thảo, tỉnh Hà giang, tục này gọi là Goạng
hạn chá, nghĩa là về thăm bên ngoại. Cô dâu sau lễ cưới, ở lại nhà chồng 3
ngày, thì trở về nhà mẹ đẻ. Sáng đi chiều về, không được ở lại đêm.
V. CÁC DÂN
TỘC THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ HÁN:
14. Dân tộc Sán Dìu: Theo đồng chí Diệp Thị Thu
Huyền, xã Trung Mí, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, tục này không còn duy trì, trước đây
sau lễ cưới 1-3 ngày, cô dâu về nhà mẹ đẻ 1-2 ngày, sau đó về ở nhà chồng hẳn.
15. Dân tộc Hoa:
Trong
sách “Dân tục học Trung Quốc cổ” của Dao Quốc Phiên, bản dịch của Đào
Văn Học, NXB Văn hóa - Thông tin, 9-1995, trong chương 18 “Phong tục dạy con gái” có đoạn:
“Thông thường thì hai vợ chồng mới cưới, trong khoảng
từ 3-7 ngày kể từ khi cưới sẽ phải về thăm gia đình nhà vợ”. Tập tục này người Tống gọi
là bái môn. Ở thời cận đại lại được
gọi là hồi môn”.
VI. CÁC DÂN
TỘC THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ VIỆT - MƯỜNG
16. Dân tộc Mường:
Theo
đồng chí Đinh Thị Ninh, Mộc Châu, Sơn La, tục này gọi là Vền dông mỏng, tức về thăm nhà ngoại. Sau lễ cưới từ 7-10 ngày,
cũng có thể 1-2 tháng, cô dâu mới trở lại nhà mẹ đẻ, ở lại 1-2 ngày, có khi 5-7
ngày, rồi trở lại nhà chồng.
Cũng
có người cung cấp tài liệu tục này gọi là lại
mặt, cô dâu về nhà mẹ đẻ trong 3 hôm, ở lại khoảng 3-7 ngày, rồi trở lại
nhà chồng.
17. Dân tộc Thổ: Theo đồng chí Trương Thị
Vần, xã Nghĩa Xuân, Quỳ Hợp, Nghệ An, tục này gọi là Lái mắt, tức lễ lại mặt. Cô dâu về nhà chồng 3 ngày, rồi trở về nhà
mẹ đẻ, ở lại trong một ngày.
18. Dân tộc Chứt (Nhóm Mã
Liềng):
Theo đồng chí Cao Điền, Bản Kè, xã Lâm Hóa, Tuyên Hóa, tục này gọi là Ăn tape ú cu, nghĩa là trở về ăn bếp,
sau khi về nhà trai 1-5 ngày, thì cô dâu trở về nhà mẹ đẻ, ở lại một đêm một
ngày.
19. Dân tộc Việt: Tục này với người Việt thì
gần như mất hẳn, đặc biệt ở các đô thị. Nhưng trước đây thì rất phổ biến. Trong
sách “Việt Nam phong tục”, học giả
Phan Kế Bính (NXB Phong trào Văn hóa, Sài Gòn, 1974), có đoạn ở trang 70: “Cưới được ba hôm, đến hôm thứ tư thì hai vợ
chồng làm lễ chè xôi, đem về nhà vợ, lạy gia tiên gọi là lễ lại mặt, chữ gọi là
tứ hỉ”.
VII. CÁC
DÂN TỘC THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ NAM
ĐẢO
20. Dân tộc Chăm: Theo đồng chí Mã Điền Cư
và Tiến sĩ Thành Phần ở dân tộc Chăm không có tục trở về. Cưới xong là người
con trai ở luôn bên nhà vợ.
21. Dân tộc Ê Đê. 22. Dân
tộc Giarai.23.Dân tộc Chu Ru:
Theo
Tiến sĩ Mlô Thu Nhung, cũng không có tục trở về. Cưới xong, người con gái không
phải sang nhà chồng, mà người con trai ở luôn nhà vợ.
Có
một phiếu điều tra không nói rõ dân tộc, có ghi: Nhà gái cưới chồng cho con.
Chú rể ở luôn bên nhà vợ. Cưới xong là về ở luôn. Như vậy, cũng không có tục
trở về.
Theo
ông già làng Yeng Tang, thì Ma Danh, xã Tu Tra, Ô Já Lưng Ma Kai, thôn Proh, xã
Proh, già làng Yeng Tung thông Grăng Gô, xã Proh, Đơn Dương, Lâm Đồng, người
Chu Ru, kể từ ngày cưới, chú rể ở hẳn bên nhà gái.
VII. CÁC
DÂN TỘC THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ MÔN - KHƠME:
24. Dân tộc Bru - Vân Kiều: Theo ông Hồ Ấm Lương, xã
Pa Từng, Hướng Hóa, Quảng Trị, tục này gọi là Pa lỗh ân chốh, nghĩa là trở về sân nhà bố mẹ đẻ. Sau lễ cưới 5-10
ngày, cô dâu trở lại nhà bố mẹ đẻ, ở lại một ngày đêm rồi về nhà chồng. Luật
tục quy định, cô dâu bắt buộc trở về nhà bố mẹ đẻ hai làn. Còn về sau những lần
thăm viếng do tình cảm thì không kể.
25. Dân tộc Ca Tu: Theo ông Pa Roal Dờ, Thừa
Thiên Huế, tục này gọi là Pa Rách, đưa
dâu về thăm mẹ đẻ. Sau lễ cưới không quá một tuần, cô dâu trở về nhà mẹ đẻ, ở
lại nhà mẹ đẻ 2-3 ngày, rồi trở về nhà chồng.
26. Dân tộc Kháng: Theo ông Hoàng Sương, xã
Năm Giơn, Mường La, Sơn La, tục này gọi là Lau
Nhar, nghĩa là lại nhà. Sau lễ cưới từ 7-10 ngày, cô dâu trở về nhà mẹ đẻ, ở
lại 3-5 ngày rồi về nhà chồng.
27. Dân tộc Khơ Mú:
Theo
ông Xeo Văn Nam, Kỳ Sơn, Nghệ An, tục này gọi là Pư gai ồm pồng, nghĩa là Trả nước vòi rượu, sau lễ cưới 7 ngày, cô
dâu trở về nhà mẹ đẻ 1-2 ngày.
28. Dân tộc Stiêng: Theo ông Điểu Điền, tỉnh
Bình Phước, tục này gọi là Bạc han mah
hạn cơi, nghĩa là tục qua lại của cô dâu. Sau lễ cưới một thời gian nhất
định tùy theo sự thỏa thuận của hai bên, cô dâu trở về mẹ đẻ, ở lại không quá
4-5 ngày, phải trở về nhà chồng.
29. Dân tộc Co: Theo bà Hồ A Ly Sa, Trà
Xuân, Trà Bồng, Quảng Ngãi, sau lễ cưới một thời gian không quy định cụ thể, cô
dâu trở về nhà mẹ đẻ, ở lại 1-3 ngày đêm, rồi trở về nhà chồng.
30. Dân tộc Cơ Ho: Theo các ông Ka Sẻn và ông
Ka Zing, xã Lộc Nam, huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng, tập tục này gọi là Ôm ta hiên chóc lao. Sau lễ cưới, ở nhà
chú rể 3 ngày thì cô dâu quay lại nhà mẹ đẻ, ở lại khoảng 3 ngày thì quay lại
nhà chồng.
31. Dân tộc Chơ Ro: Theo ông Điếu Bảo, Đồng
Nai, tục này gọi là Woong sai sĩh hây sì
ui, nghĩa là lấy nhau về bên vợ. Sau lễ cưới, cô dâu về nhà chồng 1-2 tháng
thì trở lại nhà mẹ đẻ. Ở lâu bên nhà mẹ đẻ nhiều năm. Ít người làm dâu nhà
chồng. Thường sau khi lấy chống là ở nhà mẹ đẻ. Còn chồng thì ở bên vợ lâu năm.
Thỉnh thoảng mới về thăm nhà mẹ đẻ.
MỘT SỐ NHẬN
XÉT BƯỚC ĐẦU VỀ TỤC TRỞ VỀ
Mặc
dù bức tranh về tục trở về ở các dân tộc nước ta được phát họa chưa đầy đủ, vì
chỉ đề cập đến 31 trên 54 dân tộc, tuy nhiên vẫn có thể rút ra những nhận xét
bước đầu.
1.
Tục trở về chỉ tồn tại ở các dân tộc xã hội phụ quyền, gia đình phụ quyền, quy
tắc cư trú trong hôn nhân là vợ về nhà chồng. Ở những dân tộc còn mang dấu ấn
xã hội mẫu quyền, gia đình mẫu quyền, quy tắc cư trú trong hôn nhân là chồng về
nhà vợ thì không có tục này. Ở nước ta đó là các dân tộc nói ngôn ngữ Nam
Đảo.
2.
Các dân tộc nước ta mà quy tắc cư trú trong hôn nhân là vợ về nhà chồng, thì
tục trở về là phổ biến. Căn cứ vào tên gọi tục trở về bằng tiếng dân tộc, dịch
nó sang Tiếng Việt, thì ta thấy nó có một sự thống nhất rất cao. Dù tên gọi có
khác nhau, nhưng đều mang ý nghĩa lại mặt, cô dâu trở về nhà, trở về sân, quay
lại vết chân, dấu chân, đi thăm bên gái, về thăm bên ngoại, về nhà bố mẹ, trở
về ăn bếp, trở về sân nhà bố mẹ đẻ, lại nhà, trả nước vòi rượu, lấy nhau về bên
vợ v.v.. Như vậy, trong bối cảnh các dân tộc nước ta thống nhất từ đa dạng, mặc
dù trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều, sắc thái văn hóa có
những nét đặc thù, thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau, cư trú trên địa bàn khác
nhau, số dân từng dân tộc cũng không giống nhau, nguồn gốc lịch sử cùng có sự
khác biệt, sự cộng cư của các dân tộc ở nước ta không phải diễn ra trong cùng
một thời kỳ v.v… nhưng đã là xã hội phụ quyền thì tất yếu có tục trở về trong
hôn lễ. Đối với các dân tộc phụ quyền trên thế giới mà cuốn sách của GS.Cosven
nêu lên ta cũng thấy tình hình như vậy. Ở đây nói lên rất rõ sự thống nhất của
nhân loại. Nó là một chứng cứ để bác bỏ sự sai trái của học thuyết phân biệt
chủng tộc.
3.
Tục trở về có một sức sống rất bền bỉ. Tồn tại qua hàng thế kỷ, thậm chí hàng
chục thế kỷ, đến hôm nay, nó vẫn còn được duy trì. Cố nhiên với sự phát triển
của xã hội, nhất là trong thời đại ngày nay, nó không còn giữ lại như xưa, mà
đơn giản đi nhiều, nhất là ở các dân tộc cư trú ở vùng sâu, vùng xa. Một vài
dân tộc nước ta tục này đã rất mờ nhạt, đang mất dần. Ở người Kinh sinh sống
chẳng hạn ở thành phố, tục này đã thành quá khứ.
4.
Tục trở về không chỉ là tài liệu giúp ta tìm hiểu đặc thù văn hóa dân tộc, mối
quan hệ giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, thậm chí giúp ta tìm hiểu mối quan
hệ về nguồn gốc tộc người, mà còn giúp ta tài liệu để tìm hiểu tổ chức xã hội,
trình độ phát triển xã hội của các dân tộc.
Tình
hình chỉ những xã hội phụ quyền mới có tục trở về, còn xã hội mẫu quyền thì
không, nói lên điều gì?
Dưới
xã hội mẫu quyền, vợ cưới chồng, hôn nhân chồng về ở bên vợ, thì trong hôn
nhân, người phụ nữ không thoát ly gia đình, vẫn ở lại nhà với mẹ, địa vị người
phụ nữ vẫn được tôn trọng trong gia đình và ngoài xã hội. Cô dâu một khi đã
không về nhà chú rể, thì làm sao có được tục trở về, trở lại nhà mẹ đẻ.
Còn
dưới xã hội phụ quyền, trong hôn nhân, người phụ nữ phải về nhà chồng, sống
trong môi trường mới, môi trường bất bình quyền với nam giới. Do đó cho nên có
sự phản ứng lại, có sự chống cự sự phụ thuộc vào nam giới, để duy trì địa vị
“hoàng kim” của mình trước đây.
Tục
trở về nói lên hành động của nữ giới trong hôn nhân không muốn về nhà chồng, mà
vẫn tiếp tục ở nhà mẹ. Nó là một dấu vết nói lên sự quá độ từ mẫu quyền sang
phụ quyền, nói lên cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ dai dẳng và quyết liệt của
người phụ nữ vì không muốn chịu sự thất bại có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới
khi nông nghiệp cuốc trong tay đàn bà, chuyển sang nông nghiệp cày nằm trong
tay đàn ông, với sự phát triển sức sản xuất, sản phẩm làm ra còn để tái sản
xuất mở rộng, và lại còn của cải dư thừa dùng vào việc thừa kế. Người đàn ông
với hôn nhân vợ cư trú bên chồng mới cảm thấy an tâm, về đứa con trai là dòng
máu thực sự của mình để trao quyền thừa kế tài sản cho nó.
Như
vậy, tục trở về còn là tài liệu giúp ta nhận thức về vị trí lịch sử của mẫu
quyền và phụ quyền trong tiến trình lịch sử nhân loại. Tục trở về cho ta tài
liệu có ý nghĩa thuyết phục để bảo vệ luận điểm có tính nguyên tắc của Ăngghen
trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của Nhà nước, rằng mẫu quyền là cái trụ cột để cho
lịch sử nguyên thủy xoay xung quanh nó, rằng trong xã hội nguyên thủy, mẫu
quyền nảy sinh trước, về sau nó mới bị phụ quyền thay thế. Dù trường phái Tiến
hóa luận có những mặt hạn chế do tính đơn điệu, không tính hết sự phức tạp, đa
chiều của sự phát triển các dân tộc, nhưng luận điểm mẫu quyền có trước, phụ
quyền có sau vẫn được xem như một chân lý bất di bất dịch, thậm chí một quy
luật của sự phát triển nhân loại.
Hà
Nội, 12/2004
Phan
Hữu Dật
PHIẾU ĐIỀU TRA KHẢO SÁT DÂN TỘC HỌC
TÌM HIỂU “TỤC TRỞ VỀ” TRONG HÔN NHÂN CỦA CÁC
DÂN TỘC
1. Tục trở về
là gì?
|
Người con gái
trong hôn lễ, sau khi nhà trai đưa dâu về nhà chồng, trở lại nhà mẹ đẻ một
thời gian, sau đó mới về ở hẳn bên nhà chồng
|
2. Tục này ở
từng dân tộc cụ thể gọi là gì? Bằng tiếng dân tộc, dịch nghĩa từ ngữ ra tiếng
Kinh?
|
Tục này ở dân
tộc Dao gọi là “Hùi Miền” - Dịch ra tiếng Kinh gọi lại mặt.
|
3. Cô dâu về
nhà chồng bao lâu mới trở về nhà mẹ đẻ?
|
3 ngày
|
4. Khi trở về
có ai bên nhà chồng đi theo, có mang theo lễ vật gì?
|
Chồng đi theo,
mang theo bánh Phu Thê “Gun ít”
|
5. Về nhà mẹ
đẻ có cúng bái không? Có quan hệ nam nữ tự do như trước khi lấy chồng không?
|
- Có cúng bái
- Quan hệ nam
nữ bị hạn chế.
|
6. Ở lại nhà
mẹ đẻ bao lâu mới trở lại nhà chồng?
|
Ở bao lâu
không bị ràng buộc bởi nghi lễ, tập tục mà do điều keienj của mỗi gia đình
|
7. Khi về nhà
chồng, nhà trai có người đón không? Nhà gái có ai đưa không?
|
Chỉ có 2 vợ
chồng đón long trọng, nhà gái không ai đưa.
|
8. Khi vè nhà
chồng có mang theo đồ vật gì không? Có cúng bái ở nhà chồng không
|
Tư trang cá
nhân và quà mừng đám cưới
Có cúng bái lễ
ra tiên “thêm miền khố”
|
9. Trong đời
làm dâu, chỉ trở về nhà mẹ đẻ một lần bắt buộc như vậy hay trở về nhiều lần?
|
Chỉ một lần
|
10. Đối với
phụ nữ lấy chồng lần thứ 2 có thực hiện trở về không
|
Có
|
11. Tập quán
dân tộc giải thích tục trở về như thế nào?
|
Nhận họ hàng,
ra mắt chú rể
|
12. Đối với
các dân tộc phụ nữ cưới chồng thì nam giới có thực hiện tục trở về không
|
Không
|
13. Hiện nay
tục trở về còn duy trì không, hay đã có sự thay đổi?
|
Vẫn duy trì
những được đơn giản hóa.
|
14. Tên dân
tộc được khảo sát
|
Dao
|
15. Họ tên,
giới tính, tuổi, nghề nghiệp, quê quán người cung cấp tài liệu về tục trở về
|
Lý Thành -
|
Xin cảm ơn ông (bà) đã
cung cấp thông tin về tục trở về của dân tộc mình
|
|
16. Họ tên,
giới tính, tuổi, nghề nghiệp người lấy tài liệu về tục trở về
|
Thạc sĩ Vũ
Trường Giang, nam 34 tuổi, giảng viên Phân viện Hà Nội - Học viện CTQG Hồ Chí
Minh.
|
Hà Nội, tháng 5-2004
Người lập phiếu điều tra
GS-TS. Phan Hữu Dật
No comments:
Post a Comment