Hình thái
cư trú trong hôn nhân là một trong những vấn đề quan trọng của dân tộc học. Nội
dung của vấn đề này là: sau khi kết hôn, hai vợ chồng mới cưới cùng nhau cư trú
ở đâu, bên phía gia đình chồng hay bên phía gia đình vợ, hoặc ở nơi cư trú nào
khác? Đây là nói đến nơi cư trú chung của những người khác giới để xây dựng gia
đình để tế bào của xã hội thực hiện những chức năng của nó.
Hình thái
cư trú trong hôn nhân đối với vấn đề hôn nhân và gia đình quan trọng tới mức
các nhà nghiên cứu không thỏa mãn thuật ngữ hình thái cư trú và đã phải sử dụng
thuật ngữ quy tắc cư trú trong hôn nhân (Tiếng Pháp : Règles de résidence ;
tiếng Anh : Residence rules).
Quả vậy,
hình thái cư trú trong hôn nhân không mang tính chất hình thức. Nó không phải
nói lên một cách đơn giản nơi cưa trú của 2 vợ chồng mới cưới. Sự thật nó mang
một ý nghĩa xã hội sâu sắc, là một thiết chế trong hôn nhân, được tập tục qui
định mà mọi người phải tuân thủ, không ai được xem nhẹ, và tùy tiện làm theo ý
kiến riêng của mình. Hình thái cư trú trong hôn nhân do tính chất của xã hội và
tính chất của gia đình qui định. Nó quan hệ với việc tính huyết tộc (theo tử
hệ), và cùng với tử hệ là những bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống thân tộc
của xã hội loài người.
Tầm quan
trọng của hình thái cư trú trong hôn nhân là ở chỗ qua nó ta thấy được trình độ
phát triển xã hội, hình thái hôn nhân và gia đình của đôi vợ chồng mới cưới. Ví
dụ : Nếu là trường hợp hôn nhân vợ cư trú bên chồng, ta có thể đoán định xã hội
của đôi vợ chồng mới cưới là xã hội phụ quyền và gia đình của họ là gia đình
phụ quyền (tiểu gia đình hay đại gia đình). Nếu đó là trường hợp hôn nhân chồng
cư trú bên vợ thì đó là xã hội và gia đình mẫu quyền. Cuộc sống loài người tuy
theo quy luật phát triển chung nhưng phong phú đa dạng. Về mối quan hệ giữa
hình thái cư trú trong hôn nhân và việc tính huyết thống, theo nhà Dân tộc học
Pháp Levi-Strauss, có những trường hợp hài hòa, tương đồng (như hôn nhân cư trú
bên vợ, tính huyết thống theo dòng mẹ và hôn nhân cư trú bên chồng, tính huyết
thống theo dòng bố, nhưng cũng có trường hợp không hài hòa, không tương đồng (
như hôn nhân cư trú bên vợ, tính huyết thống theo dòng bố và hôn nhân cư trú
bên chồng tính huyết tộc theo dòng mẹ).
Vấn đề
càng lý thú hơn là qua hình thái cư trú trong hôn nhân có khi ta không chỉ thấy
được tính xã hội của cặp vợ chồng đang sống mà còn thấy được tàn dư của một
giai đoạn xã hội đã qua, hiên còn bảo lưu trong xã hội ngày nay của cặp vợ
chồng. Ví dụ : Nếu ở một dân tộc nào đó, tồn tại hình thái cư trú luân phiên,
nghĩa là sau khi cưới hỏi đôi vợ chồng cư trú sang phía vợ một thời gian theo
luật tục, sau đó họ mới chuyển sang cư trú bên chồng hoặc trái lại, và cứ như
vậy mà luân phiên, hoặc tồn tại hình thái cư trú sau hôn nhân theo sự thỏa
thuận của đôi vợ chồng và gia đình của họ (cư trú bên chồng hoặc vợ), ở đây ta
thấy dấu vết của sự chuyển tiếp từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền, cũng
như dấu vết của sự chuyển tiếp từ hôn nhân cư trú bên vợ sang hôn nhân cư trú bên
chồng. Hoặc giã với hình thái cư trú bên ông cậu của người chồng, nghĩa là sau
khi cưới đôi vợ chồng mới cưới chuyển đến cư trú bên ông cậu (anh em trai của
mẹ) của người chồng, ta có thể thấy xã hội của họ là xã hội phụ quyền nhưng còn
mang tàn dư của chế độ mẫu quyền, ở đây là tập tục cữu phụ (avunculat).
Dân tộc
học từ trước đến nay đã có quan tâm nghiên cứu về vấn đề này. Tuy sự quan tâm
còn chưa tương xứng với tầm quan trọng của vấn đề, nhưng cũng có ít nhiều công
trình có giá trị. Ta có thể kể các công trình của A.Alland, của P. Bohannan,
của J.L.Fischer, của W. H. Goodenough, của G. P. Murdock, của C.Levi-Strauss,
của R.Fox, của J. Guiart .v.v.
Điểm qua
lịch sử nghiên cứu vấn đề, ta thấy rõ các hình thức cư trú trong hôn nhân của
các dân tộc trên thế giới còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Có vấn đề cho tới
nay vẫn còn nằm trong giả thuyết. Ví dụ như trường hợp hình thái cư trú bên cô
(chị em gái của bố) của vợ. Thuật ngữ này theo tiếng Pháp là Résidence
amitalocale (Tiếng Latinh amita-ae của vợ là cô, chị em gái của bố). Những người
đầu tiên đặt ra thuật ngữ là R.M Lowie và G.P Murdork, theo mẫu Résidence
avun-culcale, hôn nhân cư trú bên cậu (anh em trai của mẹ) chồng. Nội dung của
hình thái cư trú bên cô của vợ là sau lễ cưới, đôi vợ chồng chuyển đến cư trú
trong nhà, hoặc một nơi trên mảnh đất gần nhà của chị em gái của bố vợ. Hình
thái cư trú này cho tới nay vẫn nằm trong phạm vi lý thuyết. Dân tộc học thế
giới cho đến nay vẫn chưa tìm được một dẫn chứng nào cụ thể, có sức thuyết phục
về hình thái cư trú này.
Cũng có
trường hợp một hình thái hôn nhân nào đó rất hiếm hoi. Đó là hình thái hôn nhân
hai nơi cư trú, (tiếng Pháp là Résidence duolocale). Đây là trường hợp hiếm hoi
của người Nayar ở miền Tây Nam
Ấn Độ, ở bờ biển Malabar. Trong xã hội Nayar con trai đến tuổi trưởng thành
phải nhập ngũ, hết thời hạn quân ngũ trở về cư trú nơi mình sinh ra, còn con
gái, đàn bà, trong khi chồng ở quân ngũ thì phục vụ trong các gia đình giáo sĩ
Bà La Môn, vẫn gắn bó với nơi mình sinh ra, khi hết thời gian phục vụ thì trở
về nhà bố mẹ đẻ mình. Hình thái cư trú hai nơi này cũng là nguyên nhân làm cho
đời sống vợ chồng không được bền vững.
Căn cứ
tình hình khoa học ngày nay về các hình thái cư trú trong hôn nhân, ta có thể
nhận xét rằng : loài người từ trước nay có 3 hình thái cư trú trong hôn nhân
chủ yếu, đó là các hình thái hôn nhân cư trú bên vợ; hôn nhân cư trú bên chồng
và hôn nhân có nơi cư trú mới. Trong ba hình thái cư trú trong hôn nhân đó,
hình thái cư trú bên vợ chính xác hơn, bên mẹ vợ (tiếng Pháp Résidence
matrilocale) là hình thái cư trú nói chung tương ứng với thời kỳ mẫu quyền, mẫu
hệ, một thời kỳmà hiện nay là phần lớn
loài người đã trải qua và đó đây còn giữ
lại dưới dạng tàn dư, còn hình thái cư trú bên chồng, chinh xác hơn, bên bố
chồng (tiếng Pháp Résidence patrilocale) là hình thái cư trú ở đại bộ phận của
xã hội loài người, sống trong thời kỳ phụ quyền và phụ hệ. Còn hình thái cư trú
mới trong hôn nhân (tiếng Pháp Résidence néolocale) tức là sau hôn nhân, đôi vợ
chồng không cư trú bên phía vợ, cũng không cư trú bên phía chồng, mà xây dựng
nơi cư trú mới ở chung và riêng biệt, có khi nơi ở cách rất xa nơi ở của gia
đình chồng và gia đình vợ. Đây là hình thái trong hôn nhân ngày càng được phổ
biến và mở rộng cùng với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa
các quốc gia trên thế giới.
Ngoài 3
hình thái cu trú chủ yếu nói trên, Dân tộc học trên thế giới còn cho ta một số
hình thái cư trú trong hôn nhân có tính chất quá độ và trung gian nữa.
Căn cứ
các tài liệu khoa học về vấn đề này , ta có thể nêu các hình thái cư trú trong
hôn nhân như sau :
1. Hôn
nhân cư trú hai nơi, hoặc vợ chồng sau hôn lễ, tiếp tục cư trú riêng rẽ, mỗi
người một nơi, tại nơi mình đã sinh ra (tiếng Pháp Résidence duolocale hay còn
gọi là natolo-cale). Ví dụ : người Nayar
2. Hôn
nhân cư trú trong nhà mẹ vợ (tiếng Pháp Résidence matrilocale), với nội dung là
sau hôn lễ chồng sang cư trú với vợ, trong nhà mẹ vợ. Đây là trường hợp của
người Irôqua thổ dân Bắc Mỹ trước kia, nay là người Menangkabau ở Inđônêxia và
người Ashanti
ở Châu Phi.
3. Hôn
nhân cư trú trong một nhà dựng trên mảnh đất gần nhà mẹ vợ (tiếng Pháp
Résidence avunculocale, hoặc Résidence uxurilocale, hoặc Résidence
matri-uxurilocale). Theo hình thái cư trú này, sau hôn lễ chồng chuyển sang cư
trú bên vợ, trong một nhà trên mảnh đất gần nhà mẹ vợ.
4. Hôn
nhân cư trú bên cậu (anh em trai của mẹ chồng),(tiếng Pháp Résidence
avunculocale, hoặc Résidence viri – avun – culocale hay Résidence avuncu –
virilocale). Sau khi kết hôn hai vợ chồng mới cưới đến cùng cư trú bên phía anh
em trai của mẹ chồng, tức là cậu của cậu chồng. Ví dụ về trường hợp này là cư
dân đảo Trobriand thuộc quần đảo Mêlannêdi.
5. Hôn
nhân lúc đầu cư trú bên vợ, sau một thời gian mới chuyển hẳn, vĩnh viễn sang cư
trú bên chồng. (Tiếng Pháp Résidence matri- patrilocale). Theo hình thái cư trú
này, sau hôn lễ, đôi vợ chồng mới cưới lúc đầu ở nhà bố mẹ đẻ của vợ, sau một
thời gian quy định theo tập tục, hai vợ chồng (và con cái nếu có) mới chuyển
hẳn sang cư trú bên phía chồng.
6. Hôn
nhân cư trú trong nhà bố chồng (tiếng Pháp Résidence patrilocale). Sau khi kết
hôn, hai vợ chồng mới cưới cư trú trong nhà bố mẹ chồng. Đây là hình thái cư
trú phổ biến của xã hội phụ quyền. Ví dụ người Hy Lạp và người La Mã thời cổ
đại, người Nga, người Hà lan, Người Hán…
7. Hôn
nhân cư trú trong một nhà trên mảnh đất hoặc gần nhà bố mẹ chồng. (Tiếng Pháp
Résidence virilocale, hoặc Résidence patri-virilocale). Theo hình thái cư trú
này sau hôn lễ hai vợ chồng đến cư trú trong một nhà, trên mảnh đất hoặc gần
nhà của bộ mẹ chồng.
8. Hôn
nhân cư trú bên cô (chị em gái của bố) của vợ ( tiếng Pháp Résidence
amitalocale). Như đã nói ở trên, dây là giả thiết khao học, hoàn toàn trên lĩnh
vực lý thuyết, chưa tìm ra được dẫn chứng cụ thể.
9. Hôn
nhân cư trú bên vợ hay bên chồng là do sự thỏa thuận (tiếng Pháp Résidence
bilocale hay ambilocale). Nội dung như sau : sau khi kết hôn, hai vợ chồng thỏa
thuận với nhau về nơi cư trú chung, hoặc là bên vợ hoặc là bên chồng. Sự lựa
chọn này là do sở thích của cặp vợ chồng, nhưng thường thường nhân tố quyết
định sự lựa chọn nơi cư trú là địa vị xã hội, sự giàu có của gia đình ben này
bên kia. Cũng có khi là do sự thuận tiện (Dẫn chứng về trường hợp này là cư dân
đảo Gilbert ở Thái Bình Dương.
10. Hôn
nhân cư trú luân phiên (tiếng Pháp Résidence alternée). Sau hôn lễ đôi vợ chồng
mới cưới chọn nơi cư trú, ví dụ bên vợ, sau một thời gian nhất định, chẳng hạn
một năm theo luật tục quy định, thì đôi vợ chồng (cả con cái nếu có), chuyển
sang cư trú bên chồng. Sau một năm thì lại về cư trú bên vợ. Cứ như thế luân
phiên nhau. Cư dân thuộc quần đảo Mêlanêđi, Tây Thái Bình Dương, cho ta ví dụ
rõ ràng và cụ thể về hình thái cư trú này trong hôn nhân.
11. Hôn
nhân với nơi cư trú mới (tiếng Pháp Résidence néolocale). Nội dung là: đôi vợ
chồng sau khi kết hôn, không có nơi cư trú bên chồng, cũng không có nơi cư trú
bên vợ, mà chọn nơi cư trú hoàn toàn mới có khi cách rất xa nơi cư trú của gia
đình hai bên. Đây là trường hợp cư trú của cư dân hiện đại ở các đô thị, thành
phố v.v…
Ngoài ra
trong các công trình nghiên cứu liên quan đến hình thái cư trú trong hôn nhân,
ta thấy có khi bắt gặp một số thuật ngữ, khái niệm chưa rõ ràng, cần phải tiếp
tục nghiên cứu mói xác định chính xác được, ví dụ như thuật ngư : Co-
résidence, unilocale, dislocat, plurilocat…
Điểm qua
các công trình nghiên cứu Dân tộc học Việt Nam thời gian qua, ta thấy có sự
quan tâm đến các hình thái cư trú trong hôn nhân. Nhưng cho đến nay vẫn còn
chưa thấy một công trình nghiên cứu vấn đề này một cách toàn diện và có hệ
thống, chưa có một công trình nào từ việc nghiên cứu các hình thái cư trú trong
hôn nhân nói về mối quan hệ giữa hình thái cư trú trong hôn nhân với việc tính
tử hệ (theo huyết thống), giữa hình thái cư trú trong hôn nhân với hệ thống
thân tộc, giữa hình thái cư trú trong hôn nhân nói về mối quan hệ giữa hình
thái cư trú trong hôn nhân với hình thái xã hội, chưa từ vấn đề đó để nói về
đặc điểm văn hóa tộc người v.v… Tuy vậy trong nhiều công trình nghiên cứu Dân
tộc học ở nước ta, từ các sách đến các bài báo, đặc biệt khi giới thiệu đời
sống mọi mặt của từng dân tộc cụ thể ở nước ta, đều có nói đến các hình thái cư
trú trong hôn nhân. Tiêu biểu nhất là công trình “Les ethnies minoritaires du
Việt Nam” của tập thể tác giả Đặng Nghiêm Vạn, Chu thái Sơn, Lưu Hùng mặc dù
trong đó khi viết về một số dân tộc như Thổ, Xơ-Đăng, Mảng, Cơ – Tu, Tà-Ôi,
Nùng, Giấy, Lào, Lự, La Chí, Cơ Lao, Pu Péo, các tác giả đều không đề cập đến
hình thái cư trú trong hôn nhân, còn đại bộ phận các dân tộc nước ta thì vấn đề
này có được quan tâm đến. Công trình nói trên đã cung cấp cho ta những tài liệu
rất tốt để tìm hiểu các hình thái cư trú trong hôn nhân của các dân tộc nước
ta.
Điểm đầu tiên
và tổng quát có thể nhận xét là các dân tộc ở nước ta cũng có 3 hình thái cư
trú trong hôn nhân chủ yếu như các dân tộc trên thế giới. Sự tương đồng giữa
các dân tộc nước ta và các dân tộc trên thế giới không chỉ thể hiện ở các hình
thái chủ yếu cư trú trong hôn nhân, mà còn giống nhau ở vị trí lịch sử của từng
hình thái chủ yếu cư trú trong hôn nhân mà còn giống nhau ở vị trí lịch sử của
từng hình thái đó và xu thế phát triển trong tương lai của chúng. Các dân tộc
nước ta cũng có một số hình thái có tính chất quá độ hay trung gian về cư trú
trong hôn nhân, cố nhiên các hình thái quá độ này không hoàn toàn giống hình
thái quá độ của các dân tộc trên thế giới. Điều này nói lên rằng, so với các
dân tộc trên thế giới về hình thái cư trú trong hôn nhân, ta có những nét
chung, đồng thời có những nét riêng, có tính chất đặc thù. Như vậy một lần nữa,
tài liệu về quy tắc cư trú trong hôn nhân cho ta thấy sự thống nhất trong đa
dạng của sự phát triển văn hóa nhân loại. Nó cung cấp cho ta thêm cứ liệu khoa
học để bác bỏ mọi biểu hiện của học thuyết phân biệt chủng tộc.
Trong khi
tìm hiểu các hình thái cư trú trong hôn nhân của các dân tộc ở nước ta, có một
vấn đề cần xem xét thêm. Đó là tục ở rể ở một số dân tộc nước ta. Ví dụ các dân
tộc Thái, Kháng, Xinh Mun, Cống, Lự, v.v…Tập tục ở rể có phải là tàn dư của chế
độ mẫu hệ trước kia trong chế độ phụ hệ sau này không? Việc ở rể (nghĩa là sau
khi kết hôn, người chồng sang ở nhà người vợ một thời gian) và lao động cho gia
đình vợ để đền bù cho gia đình vợ sự tổn thất một nhân công lao động, do phải
gả con gái đi lấy chồng) có phải đây là hình thái cư trú hôn nhân bên phía vợ
không? Tôi nghĩ về hình thức là như vậy, còn thực chất thì không. Hình thái cư
trú trong hôn nhân là một điều bắt buộc không miễn trừ bất kỳ ai. Đằng này chế
độ ở rể thời gian ngắn dài có thể tùy tiện rút bớt, thậm chí thơi gian gần đây
đối với tầng lớp trên có của, không hiếm trường hợp tải nộp tiền cho nhà gái để
không thực hiện chế độ ở rể, lao động cực nhọc không công cho nhà vợ.
Sau đây
là một số hình thái cư trú trong hôn nhân của một số dân tộc nước ta.
1. Hình thái cư trú hai nơi. Cho đến nay
tài liệu điền đã dân tộc học chưa cung cấp được cứ liệu nào về hình thái cư trú
này. Theo nhà Dân tộc học Cầm Trọng, trong huyền thoại của người Thái Tây Bắc
nước ta, có nói đến hai mường. Mường đàn ông ở trên, Mường đàn bà ở dưới. Có lẽ
đây là hình ảnh xa xăm của hình thái cư trú hai nơi trong hôn nhân chăng? Theo
tôi nghĩ, nếu hình thái cư trú này có thật trong lịch sử loài người, đây là
hình thái cổ xưa nhất, có thể là hình thái xuất phát điểm, đầu tiên trong lịch
sử phát triển các hình thái cư trú trong hôn nhân của loài người.
2. Hôn nhân cư trú bên phía vợ, cụ thể trong
cùng một nhà với mẹ vợ có thể nói các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Đảo ở miền
Nam nước ta như Gia Rai, Ê-Đê, Chăm, Ra Glai, Chu Ru và một số dân tộc khác như
Cơ Ho, Chơ Ro v.v… đều có hình thái cư trú này trong hôn nhân.
3. Hôn nhân cư trú bên phía vợ, cụ thể trong
một nhà, trên mảnh đất, hoặc gần nhà của mẹ vợ.
Có thể
nghĩ rằng một số dân tộc ở nước ta có hình thái cư trú này trong hôn nhân.
Nhưng vì không chú ý đến sự phân loại này, nên các nhà nghiên cứu nước ta chỉ
đề cập đến hình thái cư trú bên vợ nói chung mà thôi. Tuy vậy ta cũng có một
dẫn chứng cụ thể. Đó là trường hợp nhiều người Khơ Me ở đồng bằng sông Cửu
Long, có tập tục cư trú bên vợ, sau ít năm hoặc có con thì ra ở riêng, nhưng
vẫn ở bên phía vợ cụ thể là “cất nhà ở sát ngay bên cạnh nhà bố mẹ vợ trong
cùng một phum”.
4. Hôn nhân cư trú bên cậu (anh em trai cua mẹ)
của chồng. Tài liệu Dân tộc học hiện
nay chưa có dẫn chứng về hình thái cư trú này trong hôn nhân. Nhưng theo nhà
Dân tộc học Cầm Trọng, người Thái Tây Bắc nước ta trước đây, và hiện nay người
Thái Đen ở Bình Lư, Phong Thổ, Lai Châu có hiện tượng này. Dấu vết của hình
thái cư trú này ta có thể tìm thấy trong bản tình ca “Sống chụ xôn xao” của
người Thái.
5. Hôn nhân cư trú lúc đầu là bên vợ sau một
thời gian nhất định theo luật tục quy định, mới chuyển sang hẳn cư trú bên
chồng. Dân tộc Nùng nước ta cho ta ví dụ sinh động về hình thái này. Người
Nùng có tập tục cô dâu sau khi về nhà chồng một thời gian, trở lại nhà bố mẹ đẻ
của mình, ở lại đó cho đến khi sắp sinh con đầu lòng mới chuyển hẳn sang ở nhà
chồng. Một bộ phận người Tày ở Bắc Quang (Hà Giang) cũng có tập tục này.
6. Hôn nhân cư trú bên chồng, cụ thể trong cùng
một nhà với bố chồng. Tài liệu dân tộc học Việt Nam cung cấp cho ta nhiều tài liệu
về hình thái này. Nói chung, các dân tộc theo chế độ xã hội phụ quyền, với sự
tồn tại của gia đình phụ quyền (tiểu gia đình hay đại gia đình dưới dạng tàn
dư) đều có hình thái cư trú này. Đó là trường hợp các dân tộc Việt, Mường,
Chứt, Xtiêng, Vân Kiều, Khơ Mú, Mạ, Co Ơ Đu, Brâu, Thái, Sán Chay, Bố Y, Hmông,
Dao, Pà Thẻn, Hán, Sán Dìu, Ngái, Phù Lá, Lô Lô , Si La v.v…
7.Hôn nhân cư trú bên chồng, cụ thể trên mảnh
đất hoặc gần nhà của bố chồng. Cũng như hình thái hôn nhân cư trú trong một
nhà gần nhà của mẹ vợ, hình thái hôn nhân cư trú trong một nhà gần của bố
chồng, chưa được các nhà nghiên cứu nước ta nêu lên, nhưng chắc chắn không phải
là không có, mà chỉ vì chưa chú ý đến sự phân loại này mà thôi.
8. Hôn nhân cư trú bên cô ( chị em gái của bố)
của vợ. Cũng như đối với Dân tộc học trên thế giới, Dân tộc học Việt Nam
chưa có dẫn chứng nào về hình thái cư trú này trong hôn nhân.
9. Hôn
nhân cư trú bên vợ hay bên chồng là do sự thỏa thuận của đôi chồng mới và gia
đình hai bên. Đôi khi sự thuận tiện,
thuận lợi, hoặc địa vị, tài sản của gia đình chồng hay vợ là yếu tố quyết định
nơi cư trú. Tại liệu Dân tộc học Việt Nam cho ta các dẫn chứng về hình thái cư
trú này ở người Ba Na, ở người Giẻ Triêng, ở người Hrê, Xơ Đăng …
10. Hôn nhân cư trú luân phiên - Tài liệu
Dân tộc học Việt Nam
cung cấp cho ta rất ít hình thái cư trú này. Theo Đặng Nghiêm Vạn ở người Xơ
Đăng “thông thường cặp vợ chồng cư trú bên nhà trai một thời gian rồi chuyển
sang nhà gái, và trình tự đó cứ tiếp tục. Thời hạn ở mỗi bên thường là ba đến
năm năm”. Theo nhà Dân tộc học Cầm Trọng một bộ phận người Gia-Rai nhóm Hdrung
ở gần Plâyku có tập tục trước khi sinh con đầu lòng thì vợ chồng cư trú luân
phiên sau một năm thì đổi chỗ. Khi sinh con người Gia-Rai cư trú hẳn bên vợ.
11. Hôn nhân với nơi cư trú mới Tài liệu dân tộc học nước ta cung cấp cho ta
một số tài liệu về sự ra ở riêng của cặp vợ chồng cùng con cái của họ, sau một
thời gian ở chung hoặc ở với gia đình bên vợ, hoặc với gia đình bên chồng.
Người Chơ
Ro sau khi cưới xin, chông cư trú bên vợ, sau một thời gian ở rỗi ra ở riêng.
Người Khơ Me Nam Bộ như đã nói ở trên, sau cưới, chồng cư trú bên vợ, sau ít
năm hoặc sau khi có con thì ra ở riêng v.v… Đối với cư dân sống ở các đô thị,
thành phố hiện nay, nói riêng với cán bộ nhân viên các cơ quan Nhà nước, các
đoàn thể cách mạng, các doanh nghiệp, v.v… thì sau khi thành lập gia đình,
không hiếm các trường hợp không cư trú bên vợ, cũng không cư trú bên chồng mà
chọn nơi cư trú, riêng biệt, có khi cách rất xa nhà của bố mẹ 2 bên.
Với bài
nghiên cứu này, chúng tôi không có tham vọng nêu nên một cách toàn diện, có hệ
thống, và đầy đủ về các hình thái cư trú trong hôn nhân, mà chỉ có một mong
muốn là gợi mở vấn đề này. Nước ta là quốc gia đa dân tộc, văn hóa các dân tộc
nước ta phong phú và đa dạng. Biết đâu sau này với tài liệu về quy tắc cư trú
trong hôn nhân, ta có nhiều phát hiện mới, giúp cho hiểu biết thêm bản sắc văn
hóa dân tộc, và qua đó cung cấp cho Dân tộc hộc thế giới nhiều tài liệu quý giá
và hấp dẫn.
QUY TẮC CƯ TRÚ TRONG HÔN NHÂN
(TIẾNG
PHÁP RÈGLES DE RÉSIDENCE)
TT
|
Hình
thái cư trú
|
Tiếng
Pháp
|
Nội
dung
|
Dẫn
chứng
|
1
|
Hôn nhân cư trú hai
nơi hoặc hôn nhân mà hai vợ chồng tiếp tục cư trú nơi mình sinh ra
|
Duolocale
Natolocale
|
Sau hôn lễ, vợ
chồng không thiết lập một nơi cư trú chung mà mỗi người tiếp tục ở với bố mẹ
đẻ mình, ở nơi mình sinh ra.
|
Người Nayar, người Nùng và một
bộ phận người Hán trước khi sinh con đầu lòng
|
2
|
Hôn nhân cư trú bên
vợ (trong một nhà với mẹ vợ)
|
Matrilocale
|
Sau hôn lễ, đôi vợ
chồng mới cưới cư trú trong nhà của mẹ đẻ của vợ
|
Iroqua,Menang-
Kabau, người Gia Rai, Ê-Đê,Cơ
Ho, Chơ Ro v.v
|
3
|
Hôn
nhân cư trú bên vợ (trong một nhà gần của mẹ vợ)
|
Uxurilocale
hoặc matri-
uxurilocale
|
Sau hôn
lễ, đôi vợ chồng mới, cư trú trong một nhà gần nhà của mẹ đẻ của vợ
|
Người
Khơme, Đồng bằng sông Cửu Long
|
4
|
Hôn
nhân cư trú bên cậu của chồng
|
Avunculocale
hoặc viri avunculocale hay avuncu Virilocale
|
Sau hôn
lễ, đôi vợ chồng đến cư trú bên phía cậu (anh em trai của mẹ) của chồng
|
Cư dân
đảo Trobriand người Thái đen tây bắc Việt
|
5
|
Hôn
nhân cư trú lúc đầu bên vợ, sau một thời gian mới chuyển về cư trú bên chồng
|
Matri -
patrilocale
|
Sau hôn
lễ, lúc đầu hai vợ chồng cư trú bên phía vợ, sau một thời gian mới chuyển hẳn
và vĩnh viễn cư trú bên chồng
|
Người
Nùng Việt
|
6
|
Hôn
nhân cư trú bên chồng (trong một nhà với bố chồng)
|
Patrilocale
|
Sau hôn
lễ hai vợ chồng cư trú trong nhà của bố đẻ của chồng
|
Người
Hy Lạp, La Mã, thời cổ đại, người Nga, Hán, Kinh, Vân Kiều, Hmông, Dao, Thái
v.v
|
7
|
Hôn
nhân cư trú bên chồng (trong một nhà gần nhà của bố chồng)
|
Virilocale
hay patri Virilocale
|
Sau hôn lễ hai vợ chồng cư trú
trong một nhàgần nhà của bố mẹ đẻ của chồng
|
Người
Việt
|
8
|
Hôn
nhân cư trú bên cô của vợ
|
Amitalocale
|
Sau hôn
lễ, hai vợ chồng cư trú bên phía cô (chị em gái của bố) của vợ
|
Không
có
|
9
|
Hôn
nhân cư trú do thỏa thuận
|
Bilocale
hay Amibilocale
|
Sau hôn
lễ hai vợ chồng cư trú bên nào (bên vợ hay bên chồng) là do sự thỏa thuận, sự
thuận lợi thường là do yếu tố tài sản, địa vị xã hội của bên trội hơn quyết
định
|
Cư dân
đảo Gilbert, người Ba Na , Hrê, Giẻ Triêng, Xơ Đăng
|
10
|
Hôn
nhân cư trú luân phiên
|
Alterneé
|
Sau hôn
lễ vợ chồng cư trú luân phiên, ví dụ bên vợ một thời gian rồi sang cư trú bên
chồng. Hết thời gian quy định lại chuyển về cư trú bên vợ
|
Cư dân
đảo Đôbu, một bộ phận người Gia Rai trước khi sinh con đầu lòng
|
11
|
Hôn
nhân với cư trú mới
|
Néolocale
|
Sau hôn
lễ, hai vợ chồng không cư trú bên vợ, cũng không cư trú bên chồng, mà cư trú
ở một nơi mới có khi cách xa gia đình hai bên
|
Người
Việt
|
No comments:
Post a Comment