Hôn nhân
liên minh ba “mu” ở người Khơ Me miền núi (Vân Kiều, Tri, Măng Coon) rất đáng
được chú ý . Hình thái liên minh đặc thù này tương tự như hình thái liên minh
ba thị tộc lần đầu tiên được nhà Khoa học Nga Stecbe[1]
phát hiện vào cuối thế kỷ XIX ở người Ghiliắc. Về sau nó còn được các nhà khoa
học Xô Viết như Dôlôtarép. Carunôpx.caia,
Lipxcaia, Ônđeroghê[2]
tìm thấy dấu vết ở 1 số dân tộc thuộc Liên Xô. Điều cần nhấn mạnh là căn cứ vào
tài liệu Dân tộc học hiện nay, ngoài Liên Xô, dấu vết hôn nhân liên minh ba thị
tộc chỉ mới tìm thấy ở Đông Nam Á (Mianma, Inđônêxia), Đông Bắc Ấn Độ (Assam),
và Tân ghinê (ở các bộ lạc Tôbati, Numpho), ở cư dân đảo Buắc[3].
Tài liệu
do chúng tôi thu nhập được ở người Vân Kiều cư trú ở các huyện Lệ Thuỷ thuộc
tỉnh Quảng Bình và Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị nói lên rằng tông tộc ở tộc
người này gọi là “mu”, trong nội bộ “mu”, trai gái không được lấy nhau. Hình
thái cư trú trong hôn nhân là vợ về nhà chồng. Hôn nhân chỉ được tiến hành theo
1 chiều thuận, hôn nhân ngược chiều là trái với luật tục. Trong mỗi 1 liên
minh, bao giờ cũng tối thiểu cáo ba “mu” tham gia. Ví dụ:
Ở làng
Bara: Xam La à
Đông à
Prneo à
Xam La
Ở làng
Xake: Xen Hoa à Xia Tăng à Com Lu à Xen Roa
Ở các
làng Vĩnh Hà và Bái Hà: Xom co à
Xi Nen à
Rlu à
Xom co àTam Len àSung à Cam La à Tam Len
Nhiều tài
liệu nói lên rằng trong mỗi liên minh không chỉ có 3 “mu” tham gia, mà số lượng
“mu” tham gia có khi lên đến 4, 5, 6, hoặc nhiều hơn nữa:
Ở làng
Khe Lam: Xia Tăng à
Soa à Rbôi à Xen Poa à Xia Tăng
Ở làng
Tram Đông: Húc à
Xom Riêng à Pruôi ô à Đông à Prneo .
Ở làng
Xom Rương: Xia Tăng à Đông à Prneo à Soa à Xom .
Mặc dù
không hiếm trường hợp liên minh bao gồm trên ba “mu”. Về mặt lý thuyết, trong
một chuỗi dài vô tận gồm các “mu” trong một liên minh, mỗi một “mu” lần lượt có
quan hệ chặt chẽ về nghĩa vụ và quyền hạn với 2 “mu” khác mà thôi, vì lẽ đó nên
người ta mới nói hình thái hôn nhân đặc thù này là liên minh ba thị tộc, hoặc
liên minh ba “mu”.
Có thể
nghĩ rằng, lúc đầu mỗi “mu” chỉ tham gia vào một liên minh thôi. Vế sau, dưới
sự tác động của nhiều nguyên nhân, nói riêng là do sự phát triển về số dân và
sự phân bố không đồng đều của cư dân, ở một địa bàn nào đó có “mu” mất đi sự
liên hệ với “mu” đã tham gia liên minh với mình trước đó. Lại có “mu”, do sự
hạn chế về số người của “mu” mà mình đã tham gia liên minh, nên buộc phải có
quan hệ trong hôn nhân với “mu” khác . Vì vậy nên ngày nay ở người Vân Kiều
không hiếm trường hợp một “mu” ma tham gia vào nhiều liên minh.
Ở các
huyện Vĩnh Linh và Lệ Thuỷ, chúng tôi tìm được các tài liệu sau đây:
a ) Xom
Co à XiNen à Rlu
Soa à XiNen à Klăng à Rlu
b ) Xam
La à Tam Len à Sung
Ỏrcul à Tam Len à La Bui
c ) La
Bui à Soa
La Bui à Roa
La Bui à Xrel
d ) Soa à Xom Co
Soa à Xiken
Soa à Rbôc
Soa à Đông
Điều cần
chú ý là không phụ thuộc vào số lượng liên minh đã tham gia, nguyên tắc thuận
theo chiều bao giờ cũng phải được tôn trọng triệt để. Chỉ có điều, quyền hạn và
nghĩa vụ của 1 “mu” nào đó sẽ được tăng lên theo tỷ lệ thuận với số lượng liên
minh mà “mu” đó tham gia.
Từ những điều
vừa nói trên, ta có thể rút ra các đặc điểm của hình thái hôn nhân liên minh ba
“mu” ở người Vân Kiều, cũng như Tri, Măng Coon như sau:
1- Nếu
một người đàn ông ở “mu” A lấy một người đàn bà ở “mu” B làm vợ thì :
a) một người
đàn ông ở “mu” B không lấy được một người đàn bà ở “mu” A làm vợ, mà chỉ được
lấy vợ từ một “mu” khác, ví dụ “mu” C .
b) Với
hình thái hôn nhân này thì tất cả đàn ông ở “mu” A có thẻ lấy vợ từ “mu” b và
tất cả đàn ông ở “mu” B có thể lấy vợ từ “mu” C .
Vì vậy:
a) Tất cả
đàn bà ở “mu” B về nguyên tắc là vợ của tôi, cố nhiên là trừ mẹ của tôi, và mẹ
của mẹ của tôi. Hôn nhân thường được tiến hành theo lứa tuổi .
b) Trong
“mu” của tôi, tất cả đàn bà từ các “mu” khác đến, trừ mẹ tôi về nguyên tắc là
vợ tôi, cố nhiên trong trường hợp chồng của họ qua đời . Ở người Vân Kiều gần đây
vẫn còn tồn tại tục “Xựp”. Nội dung của tục này là sau khi bố chết, con trai
lấy vợ kế bố về làm vợ. Nếu bà ta từ chối , cuộc hôn nhân này và có nguyện vọng
trở về nhà bố mẹ đẻ, thì gia đình bố mẹ đẻ bà ta phải hoàn trả lại cho gia đình
chồng quá cố toàn bộ phí tổn cho lễ cưới, điều mà thông thường vượt quá khả năng
của gia đình bố bà ta. Tập tục này thực hiện như theo nguyên tắc hôn nhân anh
em chồng. khi anh chết, em trai có quyền lấy chị dâu làm vợ, người em thứ 3 có
thể lấy vợ anh cả, khi anh thứ 2 từ chối quyền lợi của mình. Theo tập tục, trước
khi lấy vợ anh, người chồng mới phải giết lơn, hoặc gà để cúng linh hồn người
quá cô.
Việc vi
phạm nguyên tắc liên minh (Xle) sẽ bị luật tục trừng phạt nặng nề. Trước đây,
ai vi phạm sẽ bị tử hình, hoặc đuổi ra khỏi làng, vào sống đơn độc trong rừng
sâu, mà trong xã hội thị tộc bị đày vào trong rừng sâu cũng xem như là bị xử
tử. Về sau hình phạt có được giảm nhẹ, người nào vi phạm làng chỉ bắt nộp vạ
một khoản tiền bạc và nộn trâu mà thôi. Mặc dù vậy, cho đến hôm nay, quy tắc
trong hình thái hôn nhân này vẫn còn sức sống. Theo một cụ già làng Vân Kiều 65
tuổi, thì trong đời cụ, cụ chỉ mới chứng kiến một trường hợp “Xle”
2- Như
trên đã nói, cùng với thời gian, một “mu” lớn sẽ chia ra thành nhiều “mu” nhỏ
mới thành lập tiếp tục mang tên “mu” của “mu” mẹ. Các “mu” nhỏ mới thành lập
vẫn không phá vỡ quy tắc liên minh trong hôn nhân. Nói cách khác, các thành
viên của các “mu” C, D mới thành lập từ “mu”
lớn A, không thể có quan hệ hôn nhân với nhau, mà chỉ được có quan hệ
với các thành viên của các “mu” E, F, được hình thành từ “mu” lớn B
Ở đây cần
chú ý hiện hượng sau: Sau khi được tách ra từ “mu” lớn, các “mu” nhỏ “mu” mới
có thể thay đổi chiều trong hôn nhân. lấy hai “mu” A và B làm ví dụ. Đàn ông
“mu” A lấy vợ từ “mu” B
A <----- B
♂ ♀
Sau khi 2
“mu” lớn tách ra, sẽ hình thành 4 “mu” nhỏ
A B
C D E F
Trong nhiều trường hợp, đàn ông C và D tiếp
tục lấy vợ từ E và F. Trong trường hợp như vậy, đàn ông E và F không thể lấy vợ
từ C và D. Nhưng đôi khi ta thấy tình hình trái ngược. Nếu sau khi tách ra từ
“mu” lớn, đàn ông E và F lần đầu tiên mà lấy vợ C, D thì hướng dây chuyền trong
hôn nhân sẽ là ngược lại so với trước đó. Sự thay đổi như vậy, tuy không mong
muốn, những luật tục cho phép, không bắt tội.
3-
Trong một chuỗi “mu” tham gia vào một liên minh, bao giờ cũng có 1 “mu” đến lượt
giữ một vai trò trọng yếu trong mối quan hệ với 2 “mu” kia. Một mặt nó lấy đàn
bà từ “mu” thứ 2 làm vợ cho đàn ông“mu” mình. Mặt khác, nó cho đàn bà của “mu”
mình sang “mu” thứ 3 làm vợ cho đàn ông thuộc “mu” này.
4-
Hiện nay liên minh 3 “mu” ở người Vân Kiều không còn ở dạng nguyên vẹn nữa. Dưới
sự tác động của nhiều nguyên nhân, nói riêng với sự xâm nhập của hàng hoá -
tiền tệ vào trong đời sống của họ, với sự nảy sinh của mầm mống tư hữu, với sự
chuyển cư của tầng lớp thanh niên từ bản làng quê hương đến sinh sống làm ăn nơi
khác, hình thái liên minh trong hôn nhân này có chiều hướng đi vào con đường
phai nhạt.
5-
Sự hiện diện của hình thái hôn nhân này không phải là bằng chứng nói lên tính
lạc hậu nguyên thuỷ của chủ nhân nó. Quan hệ xã hội của người Vân Kiều không
thấp kém hơn quan hệ xã hội của người Khùa. Nhưng ở người Khùa, ta không thể
tìm được dấu vết của hình thái hôn nhân này.
Ý
nghĩa quan trọng của hình thái hôn nhân ở người Vân Kiều là gì?
Ngày
nay ý nghĩa của nó thể hiện sự mong muốn của đồng bào muốn mở rộng phạm vi sự đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau. Hiển nhiên, ở thời xa xưa ý nghĩa của nó rộng lớn và đa
dạng không gian sinh tồn. Tham gia liên minh hôn nhân với 2 “mu” khác, mỗi một
“mu” như vậy có thể sử dụng đất đai, tài sản rừng của hai “mu” thành viên của
liên minh. Dưới góc độ xây dựng sức mạnh võ trang, người ta có thể nhạn được từ
hai “mu” nằm trong liên minh sự hỗ trợ để tự vệ, rất cần cho cuộc sống ngày trước.
Các quan hệ kinh tế và xã hội qua lại đó được củng cố thường xuyên bằng các mối
giây liên hệ tôn giáo - tín ngưỡng.
Hiện
nay chúng tôi chưa có điều kiện để tiến hành điền dã Dân tộc học, sưu tầm tài
liệu về vấn đề này ở các dân tộc thiểu số ở Miền Nam Việt Nam và ở Lào. Tuy vậy, Căn cứ vào
một số tài liệu thu thập được ở một số người Tà Ôi lẻ tẻ, sống trên miền Bắc
Việt Nam, có thể nghĩ rằng không ngoại trừ khả năng ở người Tà Ôi cũng có tập
tục này. Còn về người Lamét ở Lào, theo các tài liệu khá mâu thuẫn của
Idicovich, một mặt nói rằng trong quan hệ hôn nhân Lamét có sự trao đổi đàn bà
giữa 2 gia đình để làm vợ, mặt khác lại viết: “ thường gặp đàn ông của một gia đình
nào đó lấy vợ từ một thị tộc. Điều này được thực hiện cũng theo một chiếu như
thế”[4] .
Hiện nay vì không đủ tài liệu, khó mà nói ở người Lamét tồn tại hình thái hôn
nhân nào. Chỉ rõ một điều: sự nghiên cứu gia đình và hôn nhân ở tộc người này
có một tầm quan trọng lớn lao đối với khoa học.
Phan
Hữu Dật
[1] L.Stecbe-xem Người Ghiliắc, 1904. Gia đình và thị
tộc ở cư dân Đông Bắc Á. Tài liệu Dân tộc học, T3,1993.N.A.Butinốp. Nguồn gốc
và thành phần cư dân thổ dân Tân Ghinê - Công trình Viện Dân tộc học, T.XXX
M-1962.
D.A.ônđerôghe - Liên minh ba thị tộc ở Đông Nam Á-
tạp chí Dân tộc học Xô Viết, 1946, số 4.
[2] G.G Stratanovich - Quan hệ kinh
tế xã hội ở người Ca - sin, số 4 Dân tọc học Xô Viết, 1954 - Tài liệu mới về
liên minh ba thị tộc ở người Batắc - Dân tộc học Xô Viết, 1959, số 6.
[3] Tarakchandra Das-Purum và bộ lạc
cổ Kuki ở Manipua. Cacuha, 1945 I.Bose
-
Nguồn gốc ba bộ lạc và hôn đẳng ở Assam “Man”, 1937, số
110.E.R.Leach.
-
Hệ thống chính trị ở Mianma, 1954.
No comments:
Post a Comment