1. Lâu
nay trên sách báo và trong cuộc sống hàng ngày, ta thường dùng các thuận ngữ
tôn giáo, tín ngưỡng, hoặc tôn giáo-tín ngưỡng hay trái lại. Cố nhiên hai thuật
ngữ này có nội dung gần gũi với nhau. Đó là niềm tin dù đó là tin vào lực lượng
siêu nhiên một cách chất phác mộc mạc, hay tin vào Đấng Cứu Thế. Nhưng tôi nghĩ
là không thể đồng nhất chúng với nhau được và cho rằng tín ngưỡng phát triển
đến một mức nào đó mới thành tôn giáo. Ở cấp độ tín ngưỡng chưa xuất hiện diện
thần (hệ thống thần linh, panthéon), chưa có hệ thống giáo lý, chưa có tầng lớp
tăng lữ (thày cúng), chưa có việc xây dựng đền miếu cố định để thờ cúng như sau
này đối với tôn giáo dân tộc, tôn giáo khu vực và tôn giáo thế giới.
Thuật
ngữ tiếng Việt
|
Tiếng
Pháp
|
Tôn
giáo
Tín
ngưỡng
Tín
ngưỡng dân gian
Mê tín
dị đoan
|
Religion
Croyance
religieuse
Croyance
populaire
Superstition
|
2. Cũng
lâu nay ở các nước xã hội chủ nghĩa (như Liên Xô trước đây) và ở Việt Nam ta,
khi nói đến tôn giáo và tín ngưỡng, câu nói nổi tiếng sau đây của Các Mác
thường hay được nhắc đến: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, trích trong
tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê ghen, viết vào cuối năm
1843, tháng 1-1844, cách đây 150 năm. Việc hiểu câu nói của Các Mác không đúng,
đã dẫn đến những việc làm không phù hợp, thể hiện trong cách xử lý đối với các
nơi thờ cúng (chùa chiền, đền, miếu, đình, v.v..), đối với tầng lớp thầy cũng
và dụng cụ hành nghề của họ v.v… Đừng nói gì xa, năm 1975 vẫn còn quyết định
cấm tổ chức lễ hội phủ Giầy, vì cho đây là mê tín dị đoan. Do nhận thức (chưa
thật chính xác về tôn giáo, đối lập giữa tôn giáo và cách mạng) nên đôi khi dẫn
đến thái độ hẹp hòi, thành kiến phân biệt đối xử với đồng bào có đạo. Kết quả
là có sự mặc cảm, thiếu tin cậy lẫn nhau giữa những người có đạo và người không
có đạo v.v…
Những
nhận thức và việc làm nói trên, mâu thuẫn với một thực tế khác, và không giải
thích được cái hiện tượng sau đây: người khai mạc phiên họp đầu tiên, của Quốc
hội đầu tiên của nước Việt Nam mới, là một giáo dân, cụ Ngô Tử Hạ; một trong
những vị trong ban Thường trực Quốc hội nước ta trước đây là linh mục Phạm Bá
Trực. Anh hùng nông nghiệp đầu tiên của nước ta là cụ Hoàng Hanh, giáo dân Nghệ
An. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vừa qua trong khi có những người
theo địch như Lê Hữu Từ, thì có biết bao nhiêu tín đồ công giáo đã góp phần mồ
hôi và xương máu. Phong trào Phật tử xuống đường, tự thiêu để chống Mỹ ngụy đã
nói lên rằng đồng bào có thể làm tốt việc đạo, đồng thời có thể làm tốt việc
đời. Nhìn ra thế giới, ta cũng thấy rằng trong Quốc tế của các người lao động
do Các Mác thành lập, có nhiều người Kitô giáo đã tranh đấu và đã anh dũng hy
sinh v.v…
Nhận thức
về tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta đã được đổi mới trong quá trình đổi mới đất
nước. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã ghi rõ: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết
lương giáo và giữa các tôn giáo”.
Từ Nghị
quyết của Đảng, chúng ta phải rà soát lại một loạt vấn đề. Trước hết phải rà
soát lại nhận thức tư tưởng. Mấu chốt là phải hiểu cho thật đúng câu nói của
Các Mác. Muốn vậy không thể chỉ trích dẫn một câu, tách nó ra riêng lẻ, mà phải
đặt nó trong toàn bộ công trình và thời điểm Các Mác viết tác phẩm nói trên.
Đặt tác
phẩm nói trên trong toàn bộ cuộc đời của Mác viết không lâu trước “Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản”, nghĩa là trong bối cảnh Mác và Ănghen đặt thành nhiệm vụ giai
cấp công nhân phải làm cách mạng để lật đổ Nhà nước tư sản, thay thế nó bằng
một Nhà nước tiến bộ hơn không có người bóc lột người. Trong tác phẩm có câu
trích dẫn trên, Mác đặt vấn đề tôn giáo trong mối quan hệ Nhà nước pháp quyền
tư sản. Mác viết: “ Căn cứ vào sự phê phán chống tôn giáo là: con người sáng
tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người… Con người chính là
thế giới con người, là Nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra
tôn giáo. Tôn giáo là lý luận chung của thế giới ấy, là sự chuẩn y về mặt đạo
đức của nó, là căn cứ phổ biến mà nó dựa vào để an ủi, để biện hộ. Tôn giáo là
tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
Xóa bỏ tôn giáo là xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện
hạnh phúc thực sự của nhân dân. Do đó, việc phê phán tôn giáo là hình thức manh
nha của sự phê phán cuộc sống khổ ải mà tôn giáo là một vòng hào quang thần
thánh của nó… Như vậy phê phán thượng giới biến thành phê phán cõi trần, phê
phán tôn giáo biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành phê
phán chính trị. Đối với nước Đức việc phê phán tôn giáo là tiên đề của mọi sự
phê phán khác, tức sự lật đổ chế độ tư bản. Như vậy Mác không nói tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân nói chung, mà chừng nào nó phục vụ giai cấp thống trị
của mình, chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, vì một xã hội mới
tốt đẹp hơn.
Để hiểu
đúng câu nói của Các Mác, tôi nghĩ những ý kiến của Fidel Castro có thể rất bổ
ích cho chúng ta. Những ý kiến nảy rút ra trong quyển sách “Fidel và tôn giáo”
của linh mục người Brésil Frei Betto, nó là kết quả cuộc phỏng vấn Fidel Castro
kéo dài 23 giờ, năm 1985 của Frei Betto. Fidel nói: “Từ cái lúc mà người ta lợi
dụng tôn giáo như công cụ thống tị, thì điều hợp lý hơn cả là những người cách
mạng có phản ứng chống các giáo sỹ, thậm chí chống tôn giáo. Và tôi hiểu đầy đủ
hoàn cảnh trong đó đã xuất hiện câu này… Thế có nghĩa rằng đó là một câu, một
khẩu hiệu có giá trị lịch sử và tuyệt đối đúng trong một thời kỳ nhất định… Trong
bất cứ nước nào mà hàng giáo, phẩm của công giáo hay bất cứ giáo hội nào khác,
cấu kết với đế quốc, thực dân kiểu mới với sự bóc lột nhân dân. Và con người,
với sự đàn áp, thì không có gì phải ngạc nhiên về sự kiện trong một nước cụ thể
có ai đó lặp lại câu tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Vậy như tôi hiểu,
câu này không hề có, mà cũng không thể có. Tính chất một giáo điều hay một chân
lý tuyệt đối, đó là một chân lý được thích ứng với những điều kiện lịch sử nhất
định và cụ thể. Tôi tin rằng kết luận như thế là hết sức biện chứng và hoàn
toàn mắc xít. Theo ý kiến tôi, xét từ quan điểm chính trị, tôn giáo tự nó không
phải là thuốc phiện, hoặc một phương thuốc diệu kỳ tùy theo người ta dùng nó
hay ứng dụng nó để bênh vực những kẻ áp bức, những kẻ bóc lột hoặc những người
bị áp bức và bị bóc lột, tùy theo cái cách người ta đề cập đến những vấn đề
chính trị, xã hội hay vật chất của con người, sinh ra và phải sống trên đời
này, không lệ thuộc vào thần học và niềm tin tôn giáo” (1).
Dưới ánh
sáng của quan điểm mới của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo, ta cũng phải xem lại
để hiểu đúng hơn câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi người gửi thư cho đồng
bào theo đạo Thiên chúa nhân ngày lễ Noel hàng năm trước đây, trong đó người
chúc đồng bào làm tốt cả việc đạo, việc đời, vừa kính Chúa vừa yêu nước. Đó là
lời chúc chân thành, và không có sự đối lập giữa việc đạo và việc đời. Đối với
Fidel Castro, ta cũng thấy như vậy. Mọi
người đều biết, trước khi làm cách mạng, Fidel đã từng học trường Công giáo
thuộc dòng Tên. Fidel có viết: “Tôi không ở trong giáo hội nữa, nhưng tôi vẫn
nắm được những nguyên tắc này đem lại cho tôi niềm hy vọng được cứu độ, bởi vì
cách mạng thực thi những nguyên tắc đó (cố nhiên bằng phương pháp khác) khi
đuổi những những kẻ giàu có về tay trắng và cung cấp cơm bánh cho kẻ đói
nghèo...”(1).
3. Việc
xác định lại nhận thức của chúng ta về câu nói của Mác không làm cho chúng ta
một chút nào lung lay trong lập trường quan điểm của chúng ta về tôn giáo - tín
ngưỡng. Chúng ta vẫn đứng vững trên lập trường vô thần để nghiên cứu tôn
giáo-tín ngưỡng. Xa lạ với chúng ta là quan điểm Homo religio. Cho tôn giáo tín
ngưỡng là bạn đồng hành của con người từ lúc khởi thủy và còn tồn tại lâu dài
chừng nào còn tồn tại con người. Chúng ta cũng không khoan nhượng với thuyết
độc thần nguyên thủy của trường phái Viên trước đây. Chúng ta cũng không chia
sẻ quan điểm với chủ nghĩa tín ngưỡng (fideisme), cho niềm tin tôn giáo đứng
trên trí tuệ, coi niềm tin tôn giáo giữ vai trò quyết định trong nhận thức chân
lý, nhận thức thế giới, vì về thực chất đó là một thứ chủ nghĩa thuộc khuynh
hướng triết học duy tâm.
Mặt khác,
chúng ta cần đề phòng sự lợi dụng Nghị quyết của Đảng xem tín ngưỡng, tôn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân để mở rộng, nhân lên không giới
hạn về nhu cầu tinh thần ấy của nhân dân. Đối với tín ngưỡng dân gian chúng ta
cần phân loại để có cách ứng xử thích hợp. Đối với loại tín ngưỡng dân gian
không lành mạnh, lỗi thời, không phù hợp với việc phát triển nền văn hóa mới,
thậm chí có hại cho sản xuất, cho đời sống, làm tổn hại đến truyền thống đoàn
kết dân tộc, làm mất ổn định xã hội v.v… thì cần loại trừ. Thuộc loại này có
thể kể các tín ngưỡng liên quan đến tục săn đầu lâu ở người Cơ Tu, tục xưng Vua
ở người Mông, tục ma lại, chài, thư v.v… ở một số dân tộc miền núi nước ta.
Loại thứ hai là các tín ngưỡng không những không gây tác hại, mà trên phương
diện nào đó còn góp phần giáo dục truyền thống, củng cố ý thức cộng đồng v.v…
thì không nên cấm đoán. Có thể kể: tục thờ tổ tiên,t ín ngưỡng cầu mùa, tục đâm
trâu, chọi trâu, nhiều lễ hội. Cố nhiên ở đây không nên lặp lại nguyên xi, cần
loại trừ dần các yếu tố mê tín dị đoan, việc tổ chức phải làm sao tiết kiệm sức
người, sức của của nhân dân v.v…
Một điều
cần nhấn mạnh nữa là khi thỏa mãn nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
cần tỉnh táo, cảnh giác, đấu tranh ngăn chặn các âm mưu và hành động thù địch
với chế độ ta, đang tìm mọi cách tuyên tuyền kèm theo các biện pháp lợi ích vật
chất đề bành trướng tôn giáo vào một số dân tộc miền núi phía Bắc cũng như
Trường Sơn - Tây Nguyên.
4. Về
thực chất, tín ngưỡng là một bộ phận cấu thành của văn hóa dân gian. Mọi người
đều biết văn hóa dân gian là bộ phận cốt lõi của văn hóa dân tộc, nó được hình
thành rất sớm trong lịch sử đời sống dân tộc, nó vừa là yếu tố truyền thống giữ
cho văn hóa dân tộc khỏi bị biến dị, lai căng, khỏi bị đồng hóa với văn hóa bên
ngoài, ngoại sinh, nó đồng thời vừa là cái nền, cái substrat để cho dân tộc
tiếp thu có chọn lọc các yếu tố văn hóa bên ngoài (cái adstrat, cái superstrat)
để làm giàu cho văn hóa dân tộc.
Tín
ngưỡng là phần sâu lắng của con người, theo cách nói gần đây, nó thuộc về đời
sống tâm linh của con người, cho nên nó là bộ phận cực kỳ quan trọng trong văn
hóa dân tộc. Vào những năm 80 của thế kỷ chúng ta, khi Liên Xô chưa tan rã, ở
Liên Xô diễn ra một cuộc tranh luận rất sôi nổi do giáo sư S.A Tôkarép khởi xướng về chức năng xã hội của tôn giáo,
tín ngưỡng. Theo giáo sư Tôkarép, tôn giáo - tín ngưỡng một mặt làm chức năng
cố kết giữa những người cùng chung một đức tin, mặt khác làm chức năng phân ly
giữa những người khác niềm tin. Tín ngưỡng dân gian như vậy làm chức năng cố
kết của cộng đồng. Trong thời kỳ mà ý thức dân tộc được hồi sinh, trong thời kỳ
mà giao lưu quốc tế ngày càng được mở rộng, song song với sự bùng nổ của cuộc
cách mạng thông tin, trong điều kiện chủ nghĩa thế giới (cosmopolitisme) vẫn
đang tìm cách mở rộng không gian sinh tồn, thì việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân
tộc là việc làm cần thiết. và tín ngưỡng dân gian có thể đóng góp phần hữu hiệu
vào công việc này. Ví dụ tín ngưỡng Bàn Vương giúp cho người Dao dù ở đâu cũng
quan hệ gắn bó với đồng tộc của mình, khắc phục hậu quả chính sách chia để trị
của phong kiến, thực dan, xé lẻ dân tộc ra gần 10 ngành. Như vậy tín ngưỡng dân
gian như một bộ phận của văn hóa dân gian, nó quan trọng vì thông qua nó, người
ta nhận diện bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc,
củng cố thắt chặt khối cộng đồng dân tộc.
5. Cuối
cùng, về phương pháp nghiên cứu, theo tôi, nghiên cứu tín ngưỡng dân gian là
việc làm khó khăn, phức tạp. Dùng phương pháp cổ điển của dân tộc học, chắc
không đem lại kết quả mong muốn. Dùng phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian,
có tốt hơn không? Thuộc nội dung của ngành tôn giáo hộc, nhưng trong khi ngành
này có đối tượng xác định, liệu nó đã có phương pháp đặc thù nào chưa? Dù sao
trước mắt, tôi nghĩ phải áp dụng phương pháp liên ngành, trong khi chờ đợi việc
làm cấp bách của giới khoa học nước ta hiện nay là soạn thảo phương pháp nghiên
cứu về tôn giáo - tín ngưỡng để cho việc nghiên cứu tiếp cận với thực tế cuộc
sống nhân dân.
(Tạp chí Dân tộc học số 2-1995)
Phan Hữu Dật
No comments:
Post a Comment